Hạc cổ trắng có tên khoa học là Ciconia episcopus (Boddaert, 1783), thuộc họ Hạc – Ciconiidae, bộ Hạc - Ciconiiformes. Đặc điểm nhận dạng: Con trưởng thành có màu đen ánh lục ở đỉnh đầu, cổ và sau lưng, dưới đuôi màu trắng. Phần còn lại của bộ lông có màu đen ánh đồng ở bao cánh, sau lưng và hông. Con non có bộ lông tương tự nhưng ở màu đen có ánh nâu được thay bằng màu thẫm, lông cổ hơi dài hơn. Mỏ màu đen, mép và chóp mỏ phớt đỏ, chân đỏ thẫm (nhìn chung Hạc cổ trắng bộ lông có màu đen bóng, cổ trắng – đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt Hạc cổ trắng và Hạc trắng, mỏ màu tối, chân màu đỏ).
Nơi sinh sống thích hợp nhất của Hạc cổ trắng là ở các cánh đồng ngập nước, đầm lầy, vùng quanh các hồ lớn. Thức ăn là các loài động vật thuỷ sinh, chủ yếu là cá. Mùa sinh sản từ tháng 8 - 11 hằng năm, hay gặp làm tổ trong các cánh rừng tràm nước hoặc các rừng khộp ven các trảng ngập nước. Mỗi lứa đẻ khoảng 3 - 5 trứng.
Trong nước ta Hạc cổ trắng phân bổ từ Nam Trung bộ đến Nam bộ. Trên thế giới chúng được xác định có mặt ở châu Phi, Ấn Độ, Pakixtan, Lào, Cămpuchia, Mianma, Inđônêxia, Thái Lan, Malaixia, Philipin. Đây là loài có đặc tính sống định cư.
Theo đánh giá của tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN), Hạc cổ trắng hiện là nguồn gien quý, giá trị khoa học cao. Số lượng đang bị giảm sút nghiêm trọng. Trong nước ta, trước đây chỉ thỉnh thoảng gặp loài này ở vùng rừng tràm U Minh thuộc Đồng Tháp Mười, vùng Mã Đà, Vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai) và một số trảng ngập nước ở rừng Tây Nguyên. Nguyên nhân chính là do chúng mất nơi làm tổ thích hợp, bị quấy nhiễu, nguồn thức ăn bị cạn kiệt do những tác động của con người như: khai thác các loài thuỷ sản quá mức, bất hợp lý bằng nhiều biện pháp khác nhau và có thể do nguồn thức ăn bị nhiễm chất độc hoá học trong chiến tranh còn tồn dư ở nơi chúng kiếm ăn.
Ở Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát, theo xác định ban đầu của các cán bộ bảo tồn hiện có 1 cặp Hạc cổ trắng đang sống, tìm kiếm thức ăn ở khu vực trảng Tà Nốt - thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của VQG. Cũng như Le khoang cổ, Hạc cổ trắng là nguồn gien quý hiếm của VQG (hiện tại mỗi loài chỉ mới ghi nhận được 1 cặp - trống và mái). Theo phân hạng của Tổ chức IUCN, Hạc cổ trắng được xếp vào những loài bị đe doạ và sẽ nguy cấp – tức là một loài đang đứng trước một nguy cơ lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai tương đối gần (VU: A1c,e C2a – các tiêu chí của IUCN). Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000), xếp bậc R (hiếm). Theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30.3.2006 của Chính phủ về Quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm, Hạc cổ trắng nằm trong phụ lục IIB (phần động vật rừng có giá trị về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng).
Đây là loài chim nước lớn được pháp luật bảo vệ. Để thực hiện bảo tồn được nguồn gien quý hiếm này, trước mắt, theo chúng tôi VQG cần khoanh vùng bảo vệ nơi kiếm ăn của Hạc cổ trắng. Bên cạnh đó, cần thực hiện tuyên truyền giáo dục các cộng đồng dân cư cần chú ý không được săn, bắt, quấy nhiễu, xâm phạm vùng chim kiếm ăn, nơi chim làm tổ…
THANH TÙNG
Ý kiến bạn đọc
- Hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, khiến nghị của người dân
- Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp
- Dịch vụ công trực tuyến tỉnh Tây Ninh
- Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
- Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Tây Ninh
- Sở Nông nghiệp và PTNT Tây Ninh
- Sở Khoa học và Công nghệ Tây Ninh
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
- Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật Tây Ninh